Hình ảnh của các “cô dâu nước ngoài” trên báo chí của Đài Loan

Tác giả: Lâm Khai Trung, Trương Nhã Đình

Lược dịch: Liên Trần

( Vui lòng không copy dưới mọi hình thức )

Nếu như căn cứ vào những đoạn tin được lưu lại tại Sở Thông tin Trung ương từ năm 1991 đến 2003, chúng ta thấy rằng, số lượng tin tức về “cô dâu nước ngoài” tại Đài Loan ngày càng nhiều. Điều này chứng tỏ xã hội Đài đã có những quan tâm nhất định đối với cộng đồng này.

Mặc dù trong những năm gần đây, số lượng cô dâu đến từ các nước Đông Nam Á đã nhiều lên, nhưng báo chí Đài Loan vẫn coi họ như là “ cư dân đặc biệt” hoặc “ cư dân thứ đẳng”. Qua thống kê, tác giả đã phân những luồng ý kiến của báo chí đối với nhóm người này thành 3 loại

1.      Những đoạn tin thuộc về mặt y học

Đây là những đoạn tin cho rằng, “cô dâu nước ngoài” đến từ những nước kém phát triển, hệ thống  y tế chưa phát triển, nên có thể sẽ mang trong mình những mầm bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS hoặc trùng a míp.

Ví dụ vào 18/9/1996, thời báo Tự Do đã cho đăng 1 tin liên quan đến việc “cô dâu nước ngoài” bị HIV. Mặc dù theo số liệu của Bộ Y tế Đài Loan, trong tổng số 1203 trường hợp bị nhiễm HIV tại đây, có 1200 trường hợp là người Đài Loan, chỉ có 3 trường hợp nước ngoài ( chiếm 0,25%), nhưng nó ngay lập tức trở thành 1 tin hot vô cùng tại thời điểm đó. Bài báo này đã đứng từ góc độ phòng chống bệnh truyền nhiễm, để nhắc nhở người dân Đài Loan rằng, khi muốn kết hôn với những cô dâu DNA, phải làm thật tốt công tác kiểm tra bệnh tật trước hôn nhân. Tuy nhiên ko chỉ dừng lại ở đây, các bài báo sau đó đã nâng tầm quan trọng của vụ việc này khi đưa ra những ý kiến khác, khiến các cô dâu đến từ DNA trở nên “bệnh tật hóa” trong con mắt người dân.

2.      Những tin tức liên quan đến chính sách dân số

Do số lượng các “cô dâu ngoại quốc” đến Đài Loan ngày càng tăng, nên từ năm 1998, chính quyền đã ban hành Kế hoạch sinh đẻ mới. Ngoài những công việc như giáo dục tư vấn sức khỏe sinh đẻ cho thanh niên, kế hoạch này còn đặc biệt quan tâm đến các “cô dâu ngoại quốc”, coi những đối tượng này là mục tiêu số 1 cần hướng tới. Bởi vì họ “ đa phần là kết hôn thông qua môi giới, mục đích chủ yếu là sinh con nối dõi, đồng thời những cô dâu này lại trẻ tuổi, trình độ học vấn thấp, rất có thể sẽ là tác nhân gây bùng phát dân số tại Đài Loan”. Để nâng cao hiệu quả của kế hoạch này, Sở Y tế còn cho in những cuốn sách về kế hoạch hóa gia đình thành nhiều thứ tiếng, phát cho các “cô dâu”. Tuy nhiên Sở Y tế cũng hiểu rõ 1 sự thực là, việc sinh đẻ của các “cô dâu” không phải do chính họ quyết định, “do không ít các cô dâu nước ngoài được nhà chồng mua về, nên mẹ chồng có quyết định lớn nhất đến việc sinh đẻ của họ, vì vậy Sở sẽ tiến hành giáo dục đến tận gia đình, để thay đổi suy nghĩ của thế hệ trước, không để các cô dâu trở thành “máy đẻ”.”

3.      Những tin tức liên quan tới việc những cô dâu là “công cụ sinh lý”, “công cụ dọn dẹp”

Loại tin tức này liên quan nhiều đến các cô dâu TQ.

Như vậy, báo chí Đài Loan đã coi các “cô dâu nước ngoài” là “vấn đề xã hội”, đã bệnh tật hóa họ, coi họ là mầm bệnh di động, là yếu tố làm  ảnh hưởng đến dân số Đài Loan.

Chú thích: “……” là những cụm từ, câu xuất hiện trong các bài báo, không phải lời tác giả

Lời người dịch:

Những tin tức kể trên đã ảnh hưởng không ít tới thái độ của người dân bản địa đối với các phối ngẫu Việt Nam.

Trong chiến tranh, nhiều nơi ở miền Nam VN đã bị nhiễm chất độc da cam. Và hiện nay, hầu hết các phối ngẫu VN tại ĐL đều đến từ miền Nam. Vì vậy, trong con mắt của người dân bản địa thì hầu hết các phối ngẫu VN tại ĐL đều có thể bị nhiễm chất độc da cam. Đây là 1 cái nhìn vô cùng thiển cận của không chỉ người dân, mà còn của 1 số ít các nhà nghiên cứu tại đây. ( Sẽ có 1 bài dịch về vấn đề này ) Lý do để dẫn đến sự sai lệch trong nhận thức này là xã hội Đài Loan chưa có sự tiếp xúc đầy đủ với lịch sử, xã hội Việt Nam, đồng thời chính thông tin sai lệch của báo chí đã làm sâu thêm những suy nghĩ này.

Không chỉ vấn đề chất độc da cam, người dân bản địa còn cho rằng phối ngẫu VN do đến từ nước chưa phát triển nên sẽ bị mắc những bệnh truyền nhiễm khác.

Do trong con mắt người dân bản địa, phối ngẫu VN có nhiều vấn đề về y tế như vậy, nên ắt sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng thế hệ thứ 2. Mẹ bị nhiễm chất độc da cam nên con ắt không thể khỏe mạnh không minh v.v … Ngoài ra, do tiếng Trung của mẹ không tốt, nên sẽ ảnh hưởng đến ngôn ngữ, việc học tập của con. Nói tóm lại, người Đài Loan nghi ngờ rất nhiều đến bộ gen của phối ngẫu và bộ gen của con phối ngẫu ( mặc dù việc sinh và nuôi dạy con là do cả cha và mẹ cùng quyết định, nhưng người Đài Loan luôn quy trách nhiệm này cho các phối ngẫu).

Để giải quyết vấn đề này, đã có 1 số trường tiểu học mở lớp học thêm miễn phí tại trường, dành cho con của các phối ngẫu. Họ lo sợ con các phối ngẫu sẽ không theo kịp các bạn cùng lớp. Nhưng thực tế, kết quả học tập của con các phối ngẫu hoàn toàn bình thường như trẻ Đài Loan, đồng thời học sinh của những lớp học thêm này về sau lại đa phần là trẻ Đài.

Tuy nhiên, tình trạng trên đã dần dần giảm đi. Hiện nay, bên cạnh những người dân Đài vẫn còn những cái nhìn hết sức mù mờ và sai lệch về VN và phối ngẫu VN, đã có những người dân thay đổi suy nghĩ của họ về vấn đề này. Và báo chí Đài Loan hiện cũng đang thay đổi theo chiều hướng tích cực.