Kinh nghiệm khi đi điều tra điền dã

(Bài viết hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm cá nhân, không có giá trị trích dẫn)

(Vui lòng không copy dưới mọi hình thức)

Như đã nói ở bài viết trước, điều tra điền dã có thể hiểu nôm na là điều tra thực tế, tức là người nghiên cứu sẽ phải đi tiếp xúc với người thật việc thật để tìm kiếm tư liệu cho nghiên cứu của mình. Phương pháp điều tra này được áp dụng trong rất nhiều ngành khoa học xã hội như: xã hội học, ngôn ngữ học, nhân học, dân tộc học v.v… Ở bài viết này, người viết sẽ trình bày việc điều tra điền dã trong lĩnh vực xã hội học, bởi vì đây là lĩnh vực mà pp điều tra điền dã được sử dụng nhiều nhất, có đầy đủ các quá trình nhất.

Phải chuẩn bị những gì trước khi đi điền dã?

–   Đầu tiên, quan trọng nhất, đó là người nghiên cứu phải xác định được rõ đề tài, vấn đề nghiên cứu và phạm vi, đối tượng điều tra. Bạn muốn làm nghiên cứu ở Hà Nội hay tỉnh khác, bạn dự định sẽ đi gặp gỡ những người nào. Đối với đối tượng điều tra, tùy từng đề tài mà việc tìm kiếm đối tượng dễ hay khó. Ví dụ khi muốn làm đề tài về “phản ứng của sinh viên với báo lá cải” (ví dụ thế) thì bạn chỉ cần đi vào trường đại học và túm bất kỳ 1 sinh viên nào đó trên đường là có thể hoàn thành phỏng vấn. Nhưng nếu như bạn muốn làm đề tài về “bạo lực gia đình” thì việc tìm kiếm trở nên khó khăn hơn nhiều. Bạn chỉ có thể lên danh sách một vài người mà bạn biết. Và thông thường ở trường hợp này, người nghiên cứu thường áp dụng pp lấy mẫu “quả cầu lăn”, tức là phỏng vấn xong người thứ 1 thì sẽ nhờ họ giới thiệu người thứ 2, người thứ 3 … Đối với một luận văn thạc sỹ, thông thường bạn sẽ phải tiến hành nghiên cứu 30 mẫu (tức là sẽ phỏng vấn ít nhất 30 người)

–   Tiếp theo, người nghiên cứu phải chuẩn bị trước một danh sách những câu hỏi sẽ được dùng trong phỏng vấn.

–   Vật dụng mà người nghiên cứu cần phải luôn luôn mang theo: máy ghi âm, pin, máy ảnh, bút, giấy, quà (để tặng cho người được phỏng vấn)

Quá trình điền dã:

–   Gọi điện hẹn trước đối tượng phỏng vấn.

–   Đến chỗ hẹn đúng giờ.

–   Bắt đầu quá trình phỏng vấn.

Đây là việc gian nan khổ ải nhất trong quá trình điền dã, và có 1 vài điểm lưu ý như sau

Một cuộc phỏng vấn phải kéo dài ít nhất 40 phút và không giới hạn thời gian. Có lần mình đã tiến hành phỏng vấn trong 3 tiếng đồng hồ liền với một người.

Mặc dù bạn đã chuẩn bị trước danh sách câu hỏi ở nhà, nhưng phỏng vấn không có nghĩa là bạn mang danh sách đó ra, đọc câu hỏi để họ trả lời. Đối với luận văn thạc sỹ, khi mà đề tài nghiên cứu tương đối phức tạp, thì khi mở đầu một cuộc phỏng vấn, bạn nên bắt đầu từ những câu hỏi thân thuộc nhất như hỏi người được phỏng vấn những vấn đề cơ bản: tên, tuổi, nghề nghiệp, quê quán. Nếu bạn và họ có một điểm chung nào đó (cùng quê, cùng tuổi, từng làm cùng công ty) thì hãy lợi dụng ngay thông tin này để tán chuyện với họ và tạo dựng một mối liên kết thân mật giữa hai người. Như vậy cuộc phỏng vấn sẽ dễ dàng hơn. Khi không khí nói chuyện đã không còn xa lạ, bạn có thể hỏi vào những vấn đề bạn cần tìm hiểu. Đặc biệt lưu ý: không cầm danh sách câu hỏi trên tay để đọc ra. Tất cả những câu hỏi nên xuất phát từ trong đầu bạn.

–   Kết thúc phỏng vấn: tặng quà họ, trao đổi số điện thoại, nhờ họ giới thiệu người tiếp theo, đề nghị chụp chung một bức ảnh với họ, xin phép được chụp ảnh chỗ làm/ chỗ ở của họ v.v… (hãy chụp nhiều ảnh nhất có thể, kể cả những thứ bạn cho rằng ko liên quan, vì rất có thể sau này sẽ cần dùng đến)

–   Sau khi phỏng vấn: viết lại nhật ký điền dã. Tức là viết lại hôm nay bạn đã đi gặp những ai, đó là những người như thế nào, nơi hẹn phỏng vấn là nơi nào, họ đi mấy người, không khí nói chuyện có thoải mái không v.v… Hãy ghi chép lại một cách tỷ mỷ cẩn thận nhất những gì đã xảy ra, vì việc này rất có ích khi bạn viết luận văn.

–   Công việc cuối cùng của pp điều tra điền dã là chuyển toàn bộ bản ghi âm thành bản word, tức là bạn nghe lại file ghi âm và đánh ra văn bản word. Nguyên tắc: hãy đánh chính xác từng từ từng chữ xuất hiện trong cuộc nói chuyện, kể cả những lúc họ ậm ừ cũng phải đánh vào, kể cả những câu mình tưởng là không hề liên quan đến đề tài cũng đánh vào, không được rút gọn bất cứ thứ gì. Bởi vì khi bạn viết luận văn, sẽ có lúc bạn phải trích dẫn lời người được phỏng vấn, và trong quá trình viết luận văn, nhiều khi bạn sẽ nảy sinh ra những ý tưởng mới và phải sử dụng những chi tiết mà lúc đầu bạn tưởng không quan trọng. Thông thường bạn sẽ mất khoảng 3 đến 5 tiếng để đánh lại một đoạn ghi âm dài 1 tiếng.

Ưu và nhược điểm của pp điền dã:

  • Nhược điểm:

–   Tốn tiền: đó là khi bạn chọn phạm vi nghiên cứu ở tỉnh khác, bạn sẽ mất nhiều tiền để đi đến đó, thuê nhà, ăn uống. Mình chọn phạm vi nghiên cứu ở tp HCM và đã phải vào đó điền dã 3 lần trong 2 năm mới kết thúc được luận văn.

–   Tốn thời gian: việc này là đương nhiên, bởi chúng ta mất ít nhất 1 tiếng để phỏng vấn 1 mẫu, ngoài ra còn mất thời gian tìm mẫu, đi lại, đánh lại bản ghi âm v.v… Đó là chưa kể có những người mà mình phán đoán sẽ là đối tượng nghiên cứu “đinh” của mình (vì họ có background hoàn toàn trùng khớp với những gì mình muốn nghiên cứu), nhưng họ rất khó mở lời (do tính cách, hoặc do họ không tin tưởng mình v.v..). Vì vậy có khi phải tiến hành phỏng vấn họ nhiều lần trong nhiều ngày nhiều tháng mới thu được kết quả. Mình cũng đã từng phải dùng cách ăn vạ khi người ta nhất quyết không cho phỏng vấn, và mình cứ thế ngồi trước cửa hàng nhà người ta từ sáng đến trưa. Anh chủ trẻ đến trưa thấy thương tình mới bảo: thôi em muốn hỏi gì thì hỏi đi =))

  • Ưu điểm:

Được tiếp xúc với người thật, việc thật, được đi lại nhiều và biết thêm nhiều điều, từ đó rèn giũa khả năng quan sát và phán đoán vấn đề. Nhiều khi bạn sẽ bị chính người được phỏng vấn mắng, chửi; bạn bị người ta từ chối không cho gặp phỏng vấn bằng những từ ngữ khiếm nhã; thậm chí bạn còn bị người ta đe dọa không cho phỏng vấn nữa v.v… Những điều trên mình đã từng trải qua khi tiến hành điền dã, và nó đã cho mình thêm rất nhiều kinh nghiệm.

Có một số nhà nghiên cứu đi theo pp điều tra định lượng (phát bảng hỏi) đã cho rằng pp điều tra định tính (điền dã) không có tính đại diện. Bởi vì nếu như dùng bảng hỏi, chúng ta có thể cùng một lúc thu về ý kiến của hàng nghìn người, thì điều tra định tính chỉ cho ta kết quả của vài chục người là nhiều.

Thực ra pp nào cũng có những hạn chế của nó.

PP định lượng cho nhiều kết quả, nhưng chưa chắc đó đã là kết quả chính xác (bảng hỏi không rõ khiến ng ta chọn nhầm câu trả lời, người được điều tra cố tình chọn đáp án khác thực tế v.v…). Vì vậy như đã nói ở bài trước, bảng hỏi phải được thiết kế thông minh, có nhiều câu hỏi bẫy, 1 vấn đề có thể được gài nhiều lần trong bảng hỏi để tránh trường hợp trả lời bừa.

PP định tính không cho nhiều kết quả, bản thân kết quả cũng phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng của người nghiên cứu. Nếu người nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm, kỹ năng phỏng vấn tốt thì thông tin thu được sẽ nhiều, và ngược lại …

Về vấn đề pp định tính có tính đại diện hay không thì câu trả lời là Có. Bởi vì mình đã từng hỏi 30 người cùng một câu hỏi, và câu trả lời mình thu về là gần như giống nhau. Tức là 30 người đó có cùng chung một quan niệm về một vấn đề. Như vậy, chúng ta có thể tạm kết luận rằng đối với vấn đề đó, mọi người có cùng chung một cách nghĩ. Đương nhiên có thể có người nào đó chúng ta không phỏng vấn, và họ có cách nghĩ khác. Đấy là sai số của điều tra, nhưng là sai số nhỏ.

Vì cả 2 pp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, nên đối với những đề tài nghiên cứu quan trọng hoặc luận văn tiến sỹ, người nghiên cứu thường kết hợp cả 2 pp này để cho kết quả chính xác nhất.

Nhắn nhủ ngoài lề: Đối với những sinh viên đại học khi viết luận văn, các bạn thường dùng pp phát bảng hỏi. Nhưng lưu ý là đừng có khai khống lên rằng bạn đã phát hàng nghìn bảng hỏi, hoặc là 500 bảng hỏi, rồi kết quả thu được là thế này thế này. Các thầy cô giáo sẽ biết ngay đó là bạn đang bịa. Tốt nhất, hãy nói ra chính xác con số mà các bạn làm được. Bởi tùy từng đề tài mà số lượng mẫu thu về sẽ khác nhau, nhưng đối với lv đại học, 200 mẫu đã được cho là quá nhiều với các bạn, còn với luận văn thạc sỹ là khoảng 1000 mẫu.

Tiếng Đài là tiếng gì?

(Vui lòng không copy dưới mọi hình thức)

Như đã nhắc đến ở những bài viết trước, hiện nay ở Đài Loan có 5 nhóm dân cư chính:

–          Người Mân Nam: có số lượng đông đảo nhất, chủ yếu di dân đến Đài Loan từ 2 huyện Chương Châu và Tuyền Châu của tỉnh Phúc Kiến – Trung Quốc. Nhóm dân cư này nói tiếng Phúc Kiến (hay còn gọi là tiếng Mân Nam – là một phương ngữ của Trung Quốc, không phải là tiếng Hán)

–          Người Khách Gia: có số lượng đông đảo thứ hai, di dân đến Đài Loan từ phía tây tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông. Đây là tộc người vốn sống tại phía Bắc Trung Quốc, sau đó dần dần di cư xuống miền Nam. Trong quá trình di chuyển hàng vài trăm năm của mình, họ đã có nhiều lần định cư tại địa điểm trên đường di cư, kết hôn với người bản địa, tiếng nói của họ cũng bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ của nơi mà họ sống (không quá nhiều, nhưng đủ để tạo đc bản sắc riêng).

–          Người tỉnh ngoài: là người Hán di cư từ TQ sang, nói tiếng Hoa

–          Những dân tộc nguyên trú: là tên gọi chung cho 14 dân tộc thiểu số tại Đài Loan ngày nay. Mỗi dân tộc có 1 tiếng nói riêng.

–          Những cư dân mới: là các phối ngẫu nước ngoài tại Đài Loan.

Như vậy có thể thấy, tại Đài Loan hiện nay có rất nhiều tiếng nói khác nhau. Tuy nhiên do thời gian di cư diễn ra sớm hơn, số lượng người đông đảo hơn nên người Mân Nam trở thành 1 nhóm người mạnh tại Đài Loan, và vì thế, trong thời kỳ Nhật trị tại đây, người ta đã vô hình chung mặc định tiếng Đài tức là tiếng Mân Nam.

Mặc dù đã được ngầm công nhận như vậy, nhưng ko phải người Đài Loan nào cũng tán thành ý kiến này. Người Khách Gia đã từng lên tiếng rằng: ‘Tại sao chúng tôi cũng là 1 nhóm người sinh sống tại Đài Loan, mà tiếng nói của chúng tôi ko phải là tiếng Đài?’ hoặc người dân tộc thiểu số cũng có ý kiến rằng: ‘Những người đầu tiên sinh sống trên đảo này là chúng tôi, chứ không phải là người Mân Nam. Vậy tại sao lại lấy tiếng Mân Nam làm đại diện cho hòn đảo này?’ Đây chính là những vấn đề liên quan đến ý thức dân tộc và sự bình đẳng về ngôn ngữ. Những cuộc cạnh tranh đã âm thầm diễn ra tại đây. Vào những năm 80 của thế kỷ 20, trên đài truyền hình tại Đài Loan, bên cạnh những kênh nói tiếng Hán thì lần đầu tiên xuất hiện 1 kênh truyền hình nói toàn tiếng Đài (tức tiếng Mân Nam). Không lâu sau đó, 1 kênh truyền hình nói tiếng Khách Gia đã ra đời. Tuy vậy, do làn sóng dân cư đông áp đảo, và chính sách ngôn ngữ của chính quyền sở tại, tiếng Mân Nam dần dần chính thức lên ngôi trở thành tiếng Đài.

Như vậy, nói tóm lại, hiện nay đảo Đài Loan có sử dụng rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, và tiếng Đài là tiếng nói của vùng Phúc Kiến (1 phương ngữ của Trung Quốc). Người Đài Loan trong đời sống hàng ngày sử dụng song song 2 thứ tiếng là tiếng phổ thông (tiếng Trung) và tiếng Đài (tiếng Mân Nam, tiếng Phúc Kiến); còn trong văn bản thì họ dùng tiếng phổ thông.

Các phương pháp nghiên cứu xã hội học

(Bài viết hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm cá nhân, không có giá trị trích dẫn)

(Vui lòng không copy dưới mọi hình thức)

Để thực hiện 1 nghiên cứu khoa học, ng nghiên cứu phải đưa ra được 1 vấn đề nghiên cứu. Vấn đề nghiên cứu thường được trình bày dưới dạng câu hỏi. Nhưng vấn đề nghiên cứu khác với câu hỏi nghiên cứu.

Ví dụ, cả lớp thấy bạn A và bạn B dạo này rất hay chơi với nhau, nên đã đặt ra rất nhiều câu hỏi: “Tại sao A lại cứ chở B về nhà nhỉ?”; “Tại sao A hay mua sinh tố cho B thế nhỉ?”; “Hôm qua trời mưa, sao A chỉ mua áo mưa cho mỗi B thôi nhỉ, trong khi có cả đám con gái ko có áo mưa đứng đó?” … Đây là những câu hỏi nghiên cứu. Còn vấn đề nghiên cứu ở đây sẽ là “Có phải A thích B hay không?”. Câu trả lời sẽ là “Có. Vì sao có” hoặc “Không, Vì sao không”. Như vậy, vấn đề nghiên cứu sẽ ở 1 dạng khái quát cao hơn, tổng quát hơn, chi phối những câu hỏi nghiên cứu. Một khi vấn đề nghiên cứu được trả lời, thì mọi câu hỏi nghiên cứu sẽ đc trả lời. Đồng thời, câu hỏi nghiên cứu là con đường tiếp xúc ban đầu với 1 vấn đề, còn vấn đề nghiên cứu là con đường tìm ra gốc rễ của vấn đề.

Và để tìm ra câu trả lời cho vấn đề nghiên cứu, chúng ta phải có những cách tiếp cận (phương pháp nghiên cứu) và có thể đại khái phân ra làm 3 loại sau:

Phương pháp tổng hợp

Đây là phương pháp mình ít được tiếp xúc nhất.

Cách tiến hành phương pháp này đại khái là người nghiên cứu phải đọc, đọc và đọc rất nhiều tài liệu. Từ những dữ liệu thu được, ng nghiên cứu sẽ phải sàng lọc, phân tích, dựa vào cơ sở lý luận để tổng hợp dẫn chứng và giải quyết vấn đề.

Phương pháp này thường dùng cho những vấn đề có tính lịch sử. Ví dụ muốn nghiên cứu việc xảy ra vào nửa đầu thế kỷ, và không có đủ nhân chứng để phỏng vấn trực tiếp cũng như phát phiếu điều tra.

Phương pháp định lượng

Là phương pháp điều tra bằng cách làm phiếu, phát ra cho đối tượng điều tra điền, thu lại, và dùng các phần mềm thống kê để phân tích.

Ưu điểm:

–         có thể cùng 1 lúc lấy ý kiến của rất nhiều người.

–         1 phiếu điều tra quy mô lớn có thể giúp phân tích được rất nhiều vấn đề.

Nhược điểm:

–         Để việc chạy phần mềm thống kê được suôn sẻ, số liệu đẹp, thì phải phát phiếu cho 1 số lượng lớn người đc điều tra. Và nhiều khi cũng không biết tìm đc ở đâu từng đấy ng điền phiếu.

–         Do phiếu điều tra là đánh dấu vào ô vuông, nên rất có thể ng trả lời thường đánh bừa, dẫn đến sai số. Việc này lại liên hệ đến kỹ năng làm phiếu. Ví dụ cùng 1 vấn đề có thể đưa ra 2 câu hỏi khác nhau, và vị trí 2 câu hỏi này ở trong bảng hỏi cách xa nhau. Nếu câu trả lời của 2 câu hỏi trên đồng nhất, tức là ng điền phiếu đã trả lời thật; nếu câu trả lời ko đồng nhất à đã điền bừa. (Cái này thầy đã nói rất kỹ, và mình cũng đã quên kha khá :P) à Một bảng hỏi chất lượng phải là bảng hỏi thu thập được đủ thông tin mình cần, đồng thời loại trừ đến mức tối đa khả năng ng điền trả lời sai.

–         Rắc rối khi chạy phần mềm thống kê. Cái này cũng liên quan đến bảng hỏi. Thông thường bảng hỏi thường đặt ra 1 câu hỏi, và đưa ra các mức lựa chọn từ 1 đến 5, tương ứng với “hoàn toàn đồng ý”,”đồng ý”,”bình thường”, “không đồng ý”, “hoàn toàn không đồng ý”. Và có những trường hợp, câu hỏi chưa đủ rõ ràng, dẫn đến việc ng điền phiếu luôn chọn ô “bình thường”. Vì vậy, khi tổng hợp dữ liệu, rất khó để biết đc thái độ của họ với vấn đề, cũng như chạy dữ liệu không đẹp hoặc tệ hơn là không chạy được.

 Phương pháp định tính

Hay còn gọi là Điều tra điền dã, Điều tra thực tế.

Tức là sau khi khoanh vùng được đối tượng điều tra, bạn sẽ đi tiếp xúc trực tiếp với họ, trò chuyện tâm tình, và hỏi những câu hỏi liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

Ưu điểm: có thể điều tra rất sâu một cá nhân/nhóm nào đó

Nhược điểm:

–         Mất rất nhiều thời gian để thực hiện.

–         Chỉ thực hiện được trên 1 lượng nhỏ người.

–         Bị chi phối nhiều bởi điều kiện khách quan: ng ta không đồng ý cho phỏng vấn hoặc ng nhà họ không đồng ý cho phỏng vấn v.v…

–         Người được phỏng vấn quá biết cách trả lời, thái độ thường ở mức “lửng lơ con cá vàng”, không đi sâu vào vấn đề ta muốn biết.

Trên đây là 1 vài tóm tắt về 3 phương pháp chủ yếu. Và câu hỏi đặt ra là nếu điều tra định lượng có giá trị đại diện, tức là có thể cho ta biết bao nhiêu % người nghĩ như thế nào, thì Điều tra định tính có giá trị đại diện hay không???

Cuộc sống xa quê của phối ngẫu VN tại ĐL

(Vui lòng không copy dưới mọi hình thức)

Những ngày đầu mới đến Cao Hùng ( phía nam Đài Loan), tôi thường được những người bạn Đài Loan kể về quán ăn Tiểu Lan. Nghe nói đây là quán ăn do người Việt mở, rất nổi tiếng, tôi bèn tìm đến. Đó không phải là 1 cửa hàng lớn, sang trọng, chỉ là 1 quán ăn nhỏ với 7 bàn ăn bên trong, và 1 khu bếp chế biến ở bên ngoài. Sở dĩ bếp được đặt ở bên ngoài là để tiện cho việc giới thiệu nguyên liệu chế biến món ăn Việt Nam cho khách. Chủ cửa hàng là một cô gái đến từ tỉnh Bạc Liêu. Năm 18 tuổi, qua sự giới thiệu của một người quen, chị đã sang Đài Loan làm dâu. Tính đến năm 2010, chị đã ở Đài Loan tròn 11 năm. Khi mới sang, toàn bộ vốn liếng của chị chỉ là vốn tiếng Trung ít ỏi, chị phải tự học đồng thời tham gia những lớp dạy tiếng cho chính phủ tổ chức, để rồi bây giờ chị hoàn toàn có thể giao tiếp như người bản địa. Sau khi lấy chồng Đài Loan và sinh được 2 cháu bé, chị Tiểu Lan có đi làm ở một quán ăn Việt Nam gần nhà. Cách đây 7 năm, sau khi đã có kinh nghiệm, vốn và được sự giúp đỡ của bạn bè, chị đã có thể tự mở được quán ăn của riêng mình. Quán ăn của Tiểu Lan đông khách ngay từ khi bắt đầu mở. Một phần vì do quán nằm ở một ngã tư khá đông đúc; và một phần cũng bởi vì phương châm giữ chữ Tín của cô chủ. Chị tâm sự: “Mình mở quán ăn thì phải coi khách là bạn, đồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng món ăn. Nếu không tạo được niềm tin nơi khách hàng thì sẽ không thể thành công”. Cứ như vậy, tiếng lành đồn xa, thực khách đến với quán của chị không ngớt. Không chỉ vậy, có những fan hâm mộ món ăn Việt đã giới thiệu quán Tiểu Lan đến với những tờ báo lớn của Đài Loan như: báo Tự Do, báo Liên Hợp … đồng thời chị còn được lên truyền hình để giới thiệu về quán ăn và ẩm thực Việt. Cho đến thời điểm hiện tại, Tiểu Lan có thể khẳng định thực khách đến ăn tại quán phần lớn là khách “ruột”, đã gắn bó với mình bao nhiêu năm nay, bao gồm cả người Đài Loan – những người muốn thưởng thức ẩm thực Việt, và cả những cô dâu, học sinh Việt Nam đang học tập và sinh sống tại Cao Hùng. Tuy thành công trong công việc là vậy, nhưng chị lại gặp trắc trở trong chuyện gia đình. Do mâu thuẫn nên chị đã ly dị được 3 năm nay. Hai con của chị sống với bố, nhưng thường xuyên qua thăm và chơi với mẹ. Hiện nay, chị đã tìm được hạnh phúc mới của mình. Bạn trai chị là người Đài Loan, đã tốt nghiệp thạc sỹ và hiện đang làm cán bộ cơ quan nhà nước tại thành phố Cao Hùng.

Nhã Tuyên là một cô gái sinh năm 1979 tại thành phố Hồ Chí Minh. 14 năm trước, chị đi làm dâu Đài Loan và cũng giống như Tiểu Lan, Nhã Tuyên gặp rất nhiều khó khăn về ngôn ngữ. Sau đó, được sự khích lệ của chồng, chị tham gia vào những lớp học tiếng Trung, đồng thời đi học nghề làm móng và trang điểm. Bây giờ, vốn tiếng Trung và tiếng Đài của Nhã Tuyên không hề thua kém người bản địa, đồng thời chị cũng đã có một cửa hàng nho nhỏ của riêng mình. Chị từ một cô dâu phải phụ thuộc và kinh tế của gia đình chồng, giờ đã có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Không chỉ vậy, chị còn có một gia đình hạnh phúc với một người chồng yêu thương vợ, và 1 bé trai 11 tuổi, 1 bé gái 2 tuổi. Điểm đặc biệt của 2 đứa con của chị là chúng nói tiếng Việt rất giỏi, bởi vì quan niệm của chị là: dù sống ở đâu, vẫn phải dạy cho con tiếng Việt, để con có ý thức hơn về 1 phần nguồn cội của mình.

Chị Thủy lại là một ví dụ đặc biệt trong số những cô dâu Việt Nam tại Đài Loan. Chị sinh năm 1969 tại thành phố Huế, và đã tốt nghiệp đại học khoa tiếng Trung. Chị quen ông xã người Đài Loan trong một lần làm phiên dịch, và 13 năm trước, chị quyết định kết hôn với anh và sang Đài Loan sinh sống. Với vốn tiếng Trung đã có được ở những năm học đại học, chị không gặp khó khăn nhiều lắm về vấn đề ngôn ngữ, nhưng chị vẫn gặp phải khó khăn về sự khác biệt văn hóa và môi trường sống giữa Việt Nam và Đài Loan. Sau khi sinh, chị Thủy đã tham gia vào rất nhiều hoạt động giúp đỡ những cô dâu Việt Nam tại Đài Loan: như dạy tiếng Trung cho cô dâu mới, giúp đỡ chị em trong cuộc sống hàng ngày. Đến năm 2007, chị quyết định theo học lớp thạc sỹ khoa Văn học Đài Loan của trường Đại học Thành Công. Chị tâm sự rằng tuổi đã cao cộng với công việc của gia đình khiến chị đi học gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên chị vẫn quyết tâm đi học, vì muốn có thêm kiến thức để sau này dạy dỗ con thật tốt.

Trên đây chỉ là một vài ví dụ trong số rất nhiều các cô dâu Việt Nam tại Đài Loan vẫn đang hàng ngày phấn đấu vì cuộc sống của mình. Họ có thể là những người đã đến Đài Loan lâu hoặc chưa lâu, lấy chồng qua giới thiệu hay qua tự tìm hiểu, cuộc sống gia đình hạnh phúc hay không hạnh phúc, nhưng có một điểm chung nhất giữa họ, đó là họ từng ngày từng giờ phấn đấu cho cuộc sống ngày một tốt hơn ở nơi đất khách.

Lịch sử di dân và các nhóm dân cư tại Đài Loan – Người Mân Nam, người Khách Gia, người Ngoại tỉnh và Tân Di dân

Nửa đầu thế kỷ 17 là giai đoạn suy vong của nhà Minh tại TQ. Sau khi sụp đổ, một số lực lượng của nhà Minh vẫn còn sót lại, trong số đó có tướng Trịnh Thành Công. Tâm lý chung của những tàn tướng khi đó là vẫn muốn chống lại nhà Thanh để khôi phục nhà Minh. Tuy nhiên do sự đàn áp mạnh mẽ của nhà Thanh, Trịnh Thành Công đã phải chạy trốn sang Đài Loan để chờ thời cơ chống lại nhà Thanh. Ở đây, ông đã lật đổ chính quyền Hà Lan và lập ra chế độ nhà Trịnh.

Trong lịch sử, phong trào “phản Minh phục Thanh” đã tạo nên một làn sóng di dân rộng khắp. Đầu tiên là sự di dân của những quan lại nhà Minh ( lý do chính trị ). Tuy nhiên, do mưu sinh, muốn tìm một vùng đất mới ( lý do kinh tế) vào nửa cuối thế kỷ 17, một số lượng lớn ng Hán từ huyện Tuyền Châu và Chương Châu của tỉnh Phúc Kiến đã di cư sang Đài Loan. Sau này, người ta gọi nhóm người này là người Mân Nam ( do tên gọi khác của Phúc Kiến là Mân Nam ), đồng thời họ nói tiếng Mân Nam. Cho đến hiện nay, đây vẫn là nhóm ng có dân số đông nhất tại Đài Loan.

Năm 1683, sau khi đánh bại nhà Trịnh, nhà Thanh đã ban hành lệnh cấm người Hán di cư đến Đài Loan. Tuy nhiên vẫn có những ng bí mật vượt biển sang đây. Sau khi nhà Thanh dỡ bỏ lệnh cấm này vào năm 1760, một đợt di dân lớn mới bắt đầu. Trong đợt này, ng di dân phần lớn là ng Khách Gia ( Hakka ). Sở dĩ gọi là “Khách” vì tộc người này có một lịch sử di chuyển lâu dài. Tuy nhiên hiện nay nghiên cứu về nhóm ng này không đồng nhất. Những nghiên cứu trước đây cho thấy, người Khách Gia vốn là tộc ng ở miền Bắc Trung Quốc, sau đó do đói kém, loạn lạc, đã dần di cư xuống miền Nam, và sau đó ra nước ngoài. Tuy nhiên 1 nghiên cứu mới đây tại Đài Loan lại cho rằng, họ là người có nguồn gốc ở miền Nam Trung Quốc, sau đó di cư đến khắp nơi. Dù sao, thì các nghiên cứu vẫn đồng nhất ở 1 điểm: người Khách Gia di cư liên tục, có ý thức tộc người mạnh mẽ, có ngôn ngữ riêng. [ Nghiên cứu về ng Khách Gia nhiều lắm, nhưng chưa đọc được nhiều, nên cũng chưa hiểu hết 😛 ] Hiện nay, đây là nhóm ng có số dân đông thứ hai tại Đài Loan.

Người ngoại tỉnh ( người tỉnh khác) là nhóm ng có số dân đông thứ ba hiện nay tại Đài Loan. Năm 1949, sau khi thất thế ở Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch đã rút sang Đài Loan. Cùng với đó là một số lượng lớn người dân theo phái Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc cũng sang Đài Loan cùng. Những người tỉnh khác đến từ những nơi khác nhau, nhưng sau đó để giao lưu, họ đã lấy tiếng Hoa phổ thông làm ngôn ngữ chính.

Hiện nay, ở Đài Loan xuất hiện nhóm ng thứ 5: Tân di dân. Đây là từ dùng để chỉ những người mới di dân đến Đài Loan. Họ là những cư dân đến Đài Loan kết hôn, sinh sống tại đây.

Như vậy, có thể tóm tắt: ở Đài Loan có 5 nhóm ng chính:

–          Người Mân Nam, nói tiếng Mân Nam, có dân số đông nhất

–          Người Khách Gia, nói tiếng Khách Gia

–          Người tỉnh ngoài

–          Những dân tộc nguyên trú

–          Tân Di dân.

Tài liệu tham khảo

Tưởng Vi Văn, 2004, “Lịch sử và ngôn ngữ Đài Loan”, Đại học quốc lập Thành Công

Ngô Mật Sát, 2000, “Từ điển sự kiện trong lịch sử Đài Loan”

Lịch sử di dân và các nhóm dân cư tại Đài Loan – Dân tộc nguyên trú (原住民)

Vào thế kỷ 16, kỹ thuật hàng hải của Châu Âu rất phát triển, đặc biệt là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Địa Trung Hải quá nhỏ bé với họ, vì vậy họ đã vượt qua Ấn Độ Dương và đến với biển Thái Bình Dương. Cùng với sự phát triển hàng hải của mình, người Bồ Đào Nha đã phát triển thương mại quốc tế đến tận Nhật Bản, Hạ Môn, Phillipine. Vào năm 1544, họ đã tìm thấy hòn đảo Đài Loan, và gọi nơi đây là “Formosa” ( tức là hòn đảo xinh đẹp ).

Đến thế kỷ 17, Hà Lan – một nước phát triển ở Châu Âu lúc đó – cũng mở rộng thương mại đến Đông Á. Cũng như nhiều quốc gia Châu Âu khác, người Hà Lan rất muốn có quan hệ buôn bán với Trung Quốc, và họ đã dừng chân ở cửa biển Hạ Môn ( Cửa biển Hạ Môn tương đối sầm uất vào thời điểm này, do các tàu khám phá từ Châu Âu sang đều dừng lại ở đây). Sau đó do không được sự đồng ý của nhà Minh về việc cư trú lâu dài, người Hà Lan đã phải rời Trung Quốc. Nhưng do vẫn muốn lưu lại Đông Á để phát triển thương mại, nên họ buộc phải tìm một hòn đảo nào đó không có chủ quyền ở gần cửa biển Hạ Môn nhất, và họ đã tìm đến đảo Bành Hồ. Nhà Minh lo sợ người Hà Lan sẽ lấy hòn đảo này làm bàn đạp xâm chiếm Trung Quốc, vì vậy năm 1623, mười nghìn quân nhà Minh đã giao tranh với Hà Lan, sau đó đã đi đến một thỏa thuận là: người Hà Lan sẽ rút quân khỏi Bành Hồ và đi đến Đài Loan. Năm 1624, người Hà Lan chính thức đặt chân lên đảo Đài Loan. Nơi đầu tiên họ đến chính là thành phố Đài Nam hiện nay, vì đây là điểm gần với TQ nhất, đồng thời ở miền Bắc lúc đó đã có ng Bồ Đào Nha chiếm đóng. Sau khi đến đây họ đã cho xây dựng ngay những căn cứ quân sự. Thành cổ An Bình và Xích Khảm Lầu hiện nay chính là căn cứ quân sự xưa của Hà Lan.

Trước năm 1624, đảo Đài Loan đã có dân cư riêng. Họ là những dân tộc nguyên trú ( 原住民 ) thuộc ngữ hệ Nam Đảo, đã sinh sống lâu đời tại đây. Họ sống khắp Đài Loan, cả ở miền núi và đồng bằng. Sau khi ng Hà Lan đến, để phát triển nông nghiệp ở đây, họ đã cổ vũ một lượng lớn ng Hán di cư từ các tỉnh duyên hải Đông Nam TQ đến Đài Loan. Ng Hán sau khi đến đã đi sâu vào trong lục địa Đài Loan, sinh cơ lập nghiệp tại đây. Cũng vì vậy mà người dân nguyên trú, do trước đây chưa hề được giao lưu với đời sống bên ngoài, xã hội chưa phát triển, kỹ thuật nông nghiệp kém, đã hoàn toàn bị lép vế trước người Hán, và dần dần bị đẩy về vùng núi cao thuộc phía Đông Đài Loan. Tuy nhiên cũng có 1 số ng dân nguyên trú đã có sự giao thoa với ng Hán, dần dần đồng hóa với ng Hán. Đến đời nhà Thanh, người ta chia ng dân nguyên trú làm 2 nhóm. Nhóm 1 là những dân tộc ở vùng đồng bằng ( 10 dân tộc ): là những dân tộc sống ở đồng bằng, có sự liên hệ với ng Hán, và dần dần chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi ng Hán. Nhóm 2 là những dân tộc ở núi cao ( 9 dân tộc ): sống ở miền núi, ít liên hệ với ng Hán. Theo thống kê, sau 2008, ở Đài Loan có 14 dân tộc nguyên trú, trong đó có 9 dân tộc thuôc nhóm 2. 5 dân tộc còn lại có 2 dân tộc thuộc nhóm 1, 3 dân tộc được tách ra từ những dân tộc khác của nhóm 2.

Trong các nghiên cứu và văn bản hành chính hiện nay tại Đài Loan, người ta xếp các dân tộc này vào nhóm Dân tộc nguyên trú để phân biệt với các nhóm ng di dân đến sau này.

Hình ảnh của các “cô dâu nước ngoài” trên báo chí của Đài Loan

Tác giả: Lâm Khai Trung, Trương Nhã Đình

Lược dịch: Liên Trần

( Vui lòng không copy dưới mọi hình thức )

Nếu như căn cứ vào những đoạn tin được lưu lại tại Sở Thông tin Trung ương từ năm 1991 đến 2003, chúng ta thấy rằng, số lượng tin tức về “cô dâu nước ngoài” tại Đài Loan ngày càng nhiều. Điều này chứng tỏ xã hội Đài đã có những quan tâm nhất định đối với cộng đồng này.

Mặc dù trong những năm gần đây, số lượng cô dâu đến từ các nước Đông Nam Á đã nhiều lên, nhưng báo chí Đài Loan vẫn coi họ như là “ cư dân đặc biệt” hoặc “ cư dân thứ đẳng”. Qua thống kê, tác giả đã phân những luồng ý kiến của báo chí đối với nhóm người này thành 3 loại

1.      Những đoạn tin thuộc về mặt y học

Đây là những đoạn tin cho rằng, “cô dâu nước ngoài” đến từ những nước kém phát triển, hệ thống  y tế chưa phát triển, nên có thể sẽ mang trong mình những mầm bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS hoặc trùng a míp.

Ví dụ vào 18/9/1996, thời báo Tự Do đã cho đăng 1 tin liên quan đến việc “cô dâu nước ngoài” bị HIV. Mặc dù theo số liệu của Bộ Y tế Đài Loan, trong tổng số 1203 trường hợp bị nhiễm HIV tại đây, có 1200 trường hợp là người Đài Loan, chỉ có 3 trường hợp nước ngoài ( chiếm 0,25%), nhưng nó ngay lập tức trở thành 1 tin hot vô cùng tại thời điểm đó. Bài báo này đã đứng từ góc độ phòng chống bệnh truyền nhiễm, để nhắc nhở người dân Đài Loan rằng, khi muốn kết hôn với những cô dâu DNA, phải làm thật tốt công tác kiểm tra bệnh tật trước hôn nhân. Tuy nhiên ko chỉ dừng lại ở đây, các bài báo sau đó đã nâng tầm quan trọng của vụ việc này khi đưa ra những ý kiến khác, khiến các cô dâu đến từ DNA trở nên “bệnh tật hóa” trong con mắt người dân.

2.      Những tin tức liên quan đến chính sách dân số

Do số lượng các “cô dâu ngoại quốc” đến Đài Loan ngày càng tăng, nên từ năm 1998, chính quyền đã ban hành Kế hoạch sinh đẻ mới. Ngoài những công việc như giáo dục tư vấn sức khỏe sinh đẻ cho thanh niên, kế hoạch này còn đặc biệt quan tâm đến các “cô dâu ngoại quốc”, coi những đối tượng này là mục tiêu số 1 cần hướng tới. Bởi vì họ “ đa phần là kết hôn thông qua môi giới, mục đích chủ yếu là sinh con nối dõi, đồng thời những cô dâu này lại trẻ tuổi, trình độ học vấn thấp, rất có thể sẽ là tác nhân gây bùng phát dân số tại Đài Loan”. Để nâng cao hiệu quả của kế hoạch này, Sở Y tế còn cho in những cuốn sách về kế hoạch hóa gia đình thành nhiều thứ tiếng, phát cho các “cô dâu”. Tuy nhiên Sở Y tế cũng hiểu rõ 1 sự thực là, việc sinh đẻ của các “cô dâu” không phải do chính họ quyết định, “do không ít các cô dâu nước ngoài được nhà chồng mua về, nên mẹ chồng có quyết định lớn nhất đến việc sinh đẻ của họ, vì vậy Sở sẽ tiến hành giáo dục đến tận gia đình, để thay đổi suy nghĩ của thế hệ trước, không để các cô dâu trở thành “máy đẻ”.”

3.      Những tin tức liên quan tới việc những cô dâu là “công cụ sinh lý”, “công cụ dọn dẹp”

Loại tin tức này liên quan nhiều đến các cô dâu TQ.

Như vậy, báo chí Đài Loan đã coi các “cô dâu nước ngoài” là “vấn đề xã hội”, đã bệnh tật hóa họ, coi họ là mầm bệnh di động, là yếu tố làm  ảnh hưởng đến dân số Đài Loan.

Chú thích: “……” là những cụm từ, câu xuất hiện trong các bài báo, không phải lời tác giả

Lời người dịch:

Những tin tức kể trên đã ảnh hưởng không ít tới thái độ của người dân bản địa đối với các phối ngẫu Việt Nam.

Trong chiến tranh, nhiều nơi ở miền Nam VN đã bị nhiễm chất độc da cam. Và hiện nay, hầu hết các phối ngẫu VN tại ĐL đều đến từ miền Nam. Vì vậy, trong con mắt của người dân bản địa thì hầu hết các phối ngẫu VN tại ĐL đều có thể bị nhiễm chất độc da cam. Đây là 1 cái nhìn vô cùng thiển cận của không chỉ người dân, mà còn của 1 số ít các nhà nghiên cứu tại đây. ( Sẽ có 1 bài dịch về vấn đề này ) Lý do để dẫn đến sự sai lệch trong nhận thức này là xã hội Đài Loan chưa có sự tiếp xúc đầy đủ với lịch sử, xã hội Việt Nam, đồng thời chính thông tin sai lệch của báo chí đã làm sâu thêm những suy nghĩ này.

Không chỉ vấn đề chất độc da cam, người dân bản địa còn cho rằng phối ngẫu VN do đến từ nước chưa phát triển nên sẽ bị mắc những bệnh truyền nhiễm khác.

Do trong con mắt người dân bản địa, phối ngẫu VN có nhiều vấn đề về y tế như vậy, nên ắt sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng thế hệ thứ 2. Mẹ bị nhiễm chất độc da cam nên con ắt không thể khỏe mạnh không minh v.v … Ngoài ra, do tiếng Trung của mẹ không tốt, nên sẽ ảnh hưởng đến ngôn ngữ, việc học tập của con. Nói tóm lại, người Đài Loan nghi ngờ rất nhiều đến bộ gen của phối ngẫu và bộ gen của con phối ngẫu ( mặc dù việc sinh và nuôi dạy con là do cả cha và mẹ cùng quyết định, nhưng người Đài Loan luôn quy trách nhiệm này cho các phối ngẫu).

Để giải quyết vấn đề này, đã có 1 số trường tiểu học mở lớp học thêm miễn phí tại trường, dành cho con của các phối ngẫu. Họ lo sợ con các phối ngẫu sẽ không theo kịp các bạn cùng lớp. Nhưng thực tế, kết quả học tập của con các phối ngẫu hoàn toàn bình thường như trẻ Đài Loan, đồng thời học sinh của những lớp học thêm này về sau lại đa phần là trẻ Đài.

Tuy nhiên, tình trạng trên đã dần dần giảm đi. Hiện nay, bên cạnh những người dân Đài vẫn còn những cái nhìn hết sức mù mờ và sai lệch về VN và phối ngẫu VN, đã có những người dân thay đổi suy nghĩ của họ về vấn đề này. Và báo chí Đài Loan hiện cũng đang thay đổi theo chiều hướng tích cực.

 

 

Những nốt lặng trong cuộc sống của các phối ngẫu

(Vui lòng không copy dưới mọi hình thức )

Cộng đồng phối ngẫu người Việt tại Đài Loan rất lớn và bao gồm trong đó là những số phận không giống nhau. Có phối ngẫu sống hạnh phúc, có việc làm ổn định, không những có thể tự chủ về kinh tế mà còn có thể gửi tiền về giúp đỡ gia đình tại Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những vấn đề như bạo hành gia đình, sự kỳ thị của người bản địa …

Những năm gần đây, những vụ bạo hành đối với phối ngẫu Việt Nam luôn là tâm điểm của báo chí Đài Loan. Một nghiên cứu của Khoa xã hội học, Đại học Trung Sơn – Cao Hùng đã cho thấy rằng, những vụ bạo hành của phối ngẫu VN đa phần xuất phát từ sự khác biệt văn hóa và việc dần dần tự chủ về kinh tế của họ. Liên là một phối ngẫu đến từ miền Nam Việt Nam, hiện đang sống ở Cao Hùng. Chồng chị làm nghề lái taxi với thu nhập không ổn định. Khi mới đến Đài Loan, do không biết tiếng nên hầu hết thời gian trong ngày của chị là làm việc nhà, chăm sóc bố mẹ chồng đã già yếu. Khi chị sinh đứa con đầu lòng cũng là lúc công việc của chồng chị không thuận lợi. Chồng chị sinh tật uống rượu say, đồng thời không chu cấp kinh tế cho hai mẹ con. Chị Liên sau khi sinh được 1 tháng đã phải ra ngoài kiếm việc làm thêm. Do vốn tiếng Trung ít ỏi nên chị chỉ xin được vào làm tại một quán bán đồ ăn sáng, 3 giờ sáng chị phải dậy để giúp nhà chủ chuẩn bị đồ và bán hàng liên tục từ sáng sớm đến 10 giờ sáng. Công việc này đã giúp chị có thêm thu nhập để nuôi con, tuy nhiên gia đình nhà chồng lại không đồng ý. Họ cho rằng chị Liên ra ngoài làm, tiếp xúc với nhiều người khác, chị sẽ bị họ “làm hư”, về nhà sẽ không nghe lời chồng cùng gia đình. Với gia đình chồng, tốt nhất là chị nên ở nhà để chăm lo nhà cửa và con cái. Nhưng với áp lực về kinh tế, muốn có tiền để nuôi con cho tốt, đồng thời dự trữ cho hai mẹ con sau này, cũng là có một ít dư để gửi về cho bố mẹ đẻ tại Việt Nam, bất chấp sự phản đối của gia đình, chị Liên vẫn tiếp tục đi làm. Đỉnh điểm của sự mâu thuẫn là khi chồng chị bạo hành với chị nhiều lần vì tội “ không nghe lời”, khiến chị phải đưa con trốn khỏi gia đình chồng và thay đổi nơi làm việc.

Những ví dụ về bạo hành như trên ở Đài Loan không phải ít. Có những phối ngẫu biết cách đến những cơ quan nhà nước để được bảo vệ, nhưng bên cạnh đó có những phối ngẫu do không có mạng lưới bạn bè, nên họ phải cam chịu cuộc sống bị bạo hành trong thời gian dài.

Một vấn đề khác mà các phối ngẫu gặp phải chính là sự kỳ thị. Chị Phụng, hội trưởng Hội chị em Việt Nam – YWCA tâm sự rằng: khi chị mới đến Đài Loan, không ít lần bị những người bản địa hỏi “ Gia đình chồng mua chị hết bao nhiêu tiền?” hoặc “Phối ngẫu Việt Nam đến Đài Loan đều là để làm tiền phải không?”. Đây chính là vấn đề xã hội mà các phối ngẫu gặp phải. Phải thừa nhận rằng, trong một cộng đồng lớn như phối ngẫu Việt Nam tại Đài Loan, có không ít những phối ngẫu có những hành vi không tốt, ví dụ: chơi hụi rồi giật hụi của các phối ngẫu khác, tổ chức đánh bạc ở những quán ăn Việt Nam, lấy tiền của chồng rồi trốn về Việt Nam v.v… Nhưng bên cạnh đó vẫn có những phối ngẫu khi được gả sang Đài Loan đã tâm niệm rằng: đây chính là quê hương thứ 2 của mình, là nơi mình phải sinh sống suốt quãng đời còn lại. Và chính họ đã ngày ngày cố gắng, hoàn thiện bản thân bằng cách chăm chỉ học tiếng Trung, tìm hiểu văn hóa xã hội Đài Loan, giúp đỡ những phối ngẫu mới đến khác, góp phần làm giảm sự kỳ thị của người Đài Loan với chính cộng đồng của mình. Đó là cả một quá trình phấn đấu lâu dài của họ.

Về cộng đồng phối ngẫu Việt Nam tại Đài Loan, ông Trương Gia Hưng, trợ lý thị trưởng thành phố Cao Hùng đã từng nói rằng: “Họ đa phần là những con người không ngừng phấn đấu để tìm một chỗ đứng cho mình ở xã hội mới. Tôi rất khâm phục họ về điều này. Đồng thời, họ cũng là những con người rất giỏi, là một phần của xã hội Đài Loan. Với sự phấn đấu đó, vào một ngày không xa, chúng ta có thể chờ đợi một phối ngẫu Việt Nam đứng ra ứng cử vào chính quyền thành phố, để giúp đỡ cho chính cộng đồng của mình. Đó là một khả năng lớn có thể xảy ra ở tương lai.”

Thay cho lời kết, tác giả muốn nói rằng, cho dù các phối ngẫu Việt Nam lấy chồng Đài Loan là do thông qua giới thiệu, hay do tự do tìm hiểu, thì sau khi đến Đài Loan, họ đã trở thành một phần của xã hội sở tại. Vượt qua những khó khăn ban đầu về ngôn ngữ, văn hóa, họ từng bước vượt qua sự kỳ thị và khẳng định bản thân thông qua sự tự chủ về kinh tế và việc tham gia các hoạt động xã hội.

Hy vọng thông qua loạt bài viết này, độc giả ở VN sẽ hiểu thêm cuộc sống của họ nơi đất khách quê người và có một cái nhìn đa chiều và nhân đạo hơn đối với cộng đồng này.

Trần Liên (from Taiwan)

Mạng lưới xã hội của các phối ngẫu VN tại ĐL

( Vui lòng không copy dưới mọi hình thức )

Khi mới đến Đài Loan, ngoài những khó khăn về ngôn ngữ, các phối ngẫu phải đối mặt với những thách thức ở khía cạnh văn hóa, mà đa phần là xuất phát đầu tiên từ phía nhà chồng. Về mặt ẩm thực: bên cạnh những gia đình khuyến khích con dâu nấu món ăn Việt Nam thì lại có gia đình cho rằng món ăn Việt Nam có mùi khó ngửi ( do có nước mắm ) và vì thế hoàn toàn không cho phép món ăn Việt có mặt trong bữa cơm gia đình. Về các mối quan hệ xã hội: đa phần các gia đình ở Đài Loan không cho phép con dâu đi ra khỏi nhà, bởi vì họ quan niệm đã là dâu thì phải ở nhà làm việc nhà, chăm sóc chồng và gia đình chồng; đồng thời họ cho rằng một khi phối ngẫu đã có bạn bè thì họ sẽ có một mạng lưới xã hội rộng hơn, sẽ bị những phối ngẫu khác “ làm hư” và trở nên “ khó bảo”. Tuy nhiên tình trạng này chỉ phổ biến ở khoảng 5, 6 năm trở về trước. Còn hiện nay, dưới tác động của những cơ quan công tác xã hội, các gia đình Đài Loan đã có cái nhìn khác về vấn đề này, và đã bắt đầu cho con dâu tiếp xúc với môi trường bên ngoài.

Một trong số những nơi phối ngẫu hay đến nhất chính là những quán ăn Việt Nam do những phối ngẫu khác mở. Theo khảo sát của tác giả tại thành phố Cao Hùng, mật độ các quán ăn Việt Nam tại đây là khá lớn, có những con phố có 3 quán ăn Việt Nam. Điều này cho thấy, các phối ngẫu đã dần dần tự chủ về kinh tế trong cuộc sống gia đình, mặt khác họ vô hình chung đã tạo ra một nơi để các phối ngẫu khác có thể đến ăn các món ăn Việt, nói chuyện, nghe những đĩa nhạc tiếng Việt v.v… Những công ty du lịch và các tổ chức xã hội cũng thông qua các quán ăn này để quảng bá những buổi biểu diễn ca nhạc của các nghệ sỹ Việt Nam tại Đài Loan, những chương trình khuyến mãi vé máy bay về VN cho các phối ngẫu.

(Một quán ăn VN tại Cao Hùng)

Tại các quán ăn này, các phối ngẫu cũng có thể mua “ Báo bốn phương”. Đây là tờ báo song ngữ Việt – Hoa duy nhất được xuất bản tại Đài Loan, được thành lập năm 2006, đối tượng phục vụ là tất cả người Việt tại đây, bao gồm người lao động, phối ngẫu, lưu học sinh. Báo bao gồm 2 ấn phẩm là báo viết và báo mạng, báo viết ra một tháng 2 số, đăng tải những tin tức mới nhất ở trong nước và của cộng đồng người Việt tại Đài Loan; cung cấp những kiến thức về bảo hiểm lao động, bảo hiểm xã hội; dạy tiếng Trung; đăng những bài thơ, những bài văn được viết bởi phối ngẫu hoặc người lao động; kết bạn bốn phương v.v… Ngoài ra, Báo bốn phương còn có phiên bản Thái – Hoa để phục vụ cộng đồng những người lao động, phối ngẫu đến từ các nước khác tại Đài Loan.

Một phần không thể thiếu được đối với cuộc sống của những chị em phối ngẫu tại Đài Loan là những tổ chức xã hội dành cho riêng họ. Riêng tại thành phố Cao Hùng, có thể kể ra những tổ chức lớn, như Hội chị em Việt Nam dưới sự quản lý của Sở Di dân thành phố, Hội đồng hương Việt Nam dưới sự quản lý của Cục xã hội thành phố Cao Hùng, hoặc Hội chị em Việt Nam thuộc Hội chị em quốc tế dưới sự quản lý của Trung tâm Nữ thanh niên thành phố Cao Hùng ( YWCA). Hội chị em Việt nam – YWCA được thành lập vào tháng 9/2007. Cho đến nay, hội đã có 50 thành viên. Những hoạt động thường thấy của hội chị em VN là tổ chức những lớp dạy nấu ăn, lớp học vi tính, lớp dạy tiếng Việt cho con các phối ngẫu, lớp học văn hóa cho các phối ngẫu … và tất cả những lớp này đều miễn phí cho các hội viên. Ngoài ra, trong những dịp lễ, thì các Hội chị em cùng nhau liên kết với nhau, để cùng tổ chức những chương trình ca nhạc chào mừng. Vào những dịp như thế này, các chị em lại có dịp mặc áo dài, các em có mẹ là người Việt lại có dịp mặc những bộ áo the khăn xếp, áo tứ thân truyền thống cùng nhau biểu diễn.

(Lớp học nấu ăn)

(Lớp dạy tiếng Việt cho con các phối ngẫu)

Như vậy có thể thấy rằng, cùng với sự gia tăng của số lượng phối ngẫu người Việt tại Đài Loan, xã hội Đài Loan cũng đang dần chấp nhận sự phát triển của nhóm người này tại đây, tổ chức những hoạt động để giúp các phối ngẫu có thể hòa đồng vào xã hội nơi đây. Từ phía các phối ngẫu, các chị cũng chủ động hội nhập để có một cuộc sống hài hòa, đa màu sắc hơn.

Vài nét tổng quan về phối ngẫu VN tại ĐL

( Vui lòng không copy dưới mọi hình thức )

Có lẽ mọi ng biết đến cụm từ ” Cô dâu Việt Nam” nhiều hơn. Và thực tế hiện nay trên báo chí  Việt vẫn lấy “cô dâu Việt Nam” làm cụm từ thông dụng để chỉ những người phụ nữ Việt Nam sang nước ngoài lấy chồng.

“Cô dâu” ( âm Hán Việt là tân nương) dùng để chỉ những cô gái mới về nhà chồng. Nhưng tại Đài Loan, có những phụ nữ Việt đã có 10 năm làm dâu Đài, thế mà vẫn bị người dân/ báo chí Đài gọi là “tân nương”. Điều này đã làm dấy lên 1 làn sóng phản đối của cả đương sự và các nhà nghiên cứu xã hội. Họ cho rằng cách gọi như vậy là không tôn trọng nhóm người này, có hàm ý luôn luôn coi nhóm người này là những người mới, không thuộc về xã hội Đài Loan, mặc dù trong thực tế, họ đã sang đây làm dâu, sinh con đẻ cái ở đây. Sau những cuộc vận động xã hội, hiện nay, báo chí Đài đã dùng “phối ngẫu” ( có nghĩa là bạn đời) để thay cho từ “cô dâu”. Tuy nhiên, vẫn còn những tờ báo vẫn dùng từ “cô dâu” hoặc “Việt nương”. Cá nhân ng viết thấy, đây là cách gọi không tôn trọng. Vì vậy, tác giả thống nhất dùng cách gọi “phối ngẫu” trong các bài viết của mình.

Nói thêm về từ phối ngẫu. Từ gốc tiếng Trung là 配偶,dịch nôm na sang tiếng Việt có nghĩa là bạn đời, cũng có nghĩa là bao gồm cả phối ngẫu nam và nữ. Thực tế, cũng tồn tại phối ngẫu nam Việt Nam tại Đài Loan, nhưng số lượng không nhiều. Do vậy, các nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung vào phối ngẫu nữ ( gọi tắt thành phối ngẫu ).

Theo số liệu thống kê của Bộ Nội Vụ Đài Loan được công bố vào tháng 1/2010 về tình hình kết hôn với người nước ngoài của công dân Đài Loan, trong năm 2009 có 18.241 phối ngẫu ngoại quốc đến Đài Loan, trong đó có 12603 phối ngẫu đến từ các tỉnh duyên hải Trung Quốc, phối ngẫu Việt Nam có 3614 người xếp vị trí thứ 2, vị trí thứ 3 thuộc về các phối ngẫu đến từ Indonesia với 739 người. Tính đến tháng 2/2010, tổng số lượng phối ngẫu Việt Nam tại Đài Loan là 82.986 người.

Theo thống kê của các nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Khoa học Xã hội Đài Loan, trong vòng 10 năm từ 1997 đến 2007, số lượng các phối ngẫu đến từ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí cao trong nhóm các phối ngẫu đến từ Đông Nam Á, ví dụ, tỉ lệ phối ngẫu Việt Nam / phối ngẫu đến từ Đông Nam Á tại Đài Loan năm 1997 là 56,6%, cũng tỉ lệ đó năm 2000 là 61,6% và 2007 là 61%. Xếp sau Việt Nam là các nước Indonesia, Thái Lan, Phillipine …

Sau khi đến Đài Loan, khó khăn đầu tiên của đa số các phối ngẫu là vấn đề ngôn ngữ, văn hóa. Các chị thường chưa biết, hoặc biết rất ít tiếng bản địa trước khi sang đến nhà chồng, vì vậy ngôn ngữ là rào cản rất lớn. Khi chưa nói được nhiều, các chị phần lớn phải phụ thuộc vào chồng và gia đình chồng: ở nhà làm việc nhà, chăm sóc con cái và sống dựa vào thu nhập của chồng. Tuy nhiên có một số phối ngẫu, do chồng có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định ( ví dụ: lái xe, thợ hồ … ) thì sau khi đã có một số vốn tiếng bản địa kha khá, họ bắt đầu ra ngoài kiếm việc làm thêm. Công việc chủ yếu mà các phối ngẫu hay lựa chọn là lau dọn nhà, bán hàng ở những cửa hàng ăn, bán hàng ở chợ đêm … vì đây là những công việc không đòi hỏi giấy phép lao động. Tuy nhiên đến năm 2009, Đài Loan đã ban hành chính sách bỏ giấy phép lao động đối với những phối ngẫu đến từ Đông Nam Á. Với chính sách này, các phối ngẫu có nhiều lựa chọn về nghề nghiệp cho mình hơn.

 

Như đã nói phía trên, hầu hết các phối ngẫu ngoại quốc ( bao gồm phối ngẫu Việt Nam ) đều gặp khó khăn về ngôn ngữ, văn hóa khi mới đến Đài Loan, vì vậy, từ năm 2003, chính phủ Đài Loan đã mở những lớp dạy tiếng Trung miễn phí. Địa điểm học có thể ở một ngôi trường ở địa phương vào buổi tối, hoặc cũng có thể học ở văn phòng của những tổ chức xã hội. Những lớp học này có nhiệm vụ chủ yếu là dạy tiếng Trung cho các phối ngẫu nước ngoài, đồng thời cũng dạy họ những kiến thức cơ bản về văn hóa, xã hội Đài Loan. Ngoài ra, chính phủ và các cơ quan liên quan còn có những hoạt động giúp chị em tìm hiểu về những kiến thức y học thường thức trong gia đình (ví dụ: phương pháp chăm sóc trẻ nhỏ, phòng tránh thai … ), những kiến thức về tìm việc làm, mở tiệm bán hàng v.v … Ưu điểm của những chương trình này là đã cung cấp những kiến thức bước đầu cho các phối ngẫu ngoại quốc, giúp họ có thể hòa nhập nhanh với xã hội mới. Tuy nhiên, cũng phải nói đến hạn chế của nó là đã coi chị em phối ngẫu ngoại quốc là những người đến từ những nước kém phát triển, có trình độ văn hóa hạn chế, dẫn đến những hiểu biết phiến diện của nhiều người dân bản địa.

Một lớp dạy tiếng Trung cho phối ngẫu nước ngoài tại Đài Loan

nguồn: http://blog.roodo.com/mlcu04/archives/9807933.html

Tác giả: Liên Trần